Tín, Nguyện, Hạnh là tư lương của kẻ đi đường xa về Cực Lạc.Chẳng thật hành,chỉ là Tín, Nguyện suông
Trích đoạn : TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014 (Giảng lần thứ 4)
Tập 191
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Nếu không Tín, Nguyện, dù trì niệm câu hồng danh cho đến gió thổi không vào, mưa sa chẳng lọt, vững chắc như tường đồng vách sắt, cũng không được vãng sanh. Người niệm Phật tinh chuyên mà thiếu Tín, Nguyện, tùy công phu sâu cạn kết quả chỉ được hưởng phước báu nhơn thiên, khi hết phước vẫn phải bị luân hồi như cũ.
Tín, Nguyện, Hạnh còn gọi là ba món tư lương của môn Tịnh Độ. Ví như người đi xa phải cụ bị chăn mùng thuốc men, thức ăn mặc, và tiền bạc, để có đủ sự cần dùng khi lên đường. Người tu Tịnh Độ cũng thế, thiếu lòng tin không thể phát Nguyện.
Có Tín, Nguyện mà chẳng thật hành, tức tu phần Hạnh, chỉ là Tín, Nguyện suông. Và nếu Hạnh đầy đủ mà thiếu sót Tín, Nguyện thì sự thật hành đó lạc lõng, không có tiêu chuẩn, đường lối. Cho nên Tín, Nguyện, Hạnh là tư lương của kẻ đi đường xa về Cực Lạc. Đối với sự vãng sanh, ba điều này có tánh cách liên đới nhau, thiếu một, tất không thành tựu.
* Ngẫu Ích đại sư, một bậc tôn túc về Tịnh Độ đã dạy: Được vãng sanh cùng chăng toàn do Tín, Nguyện có hay không, phẩm vị thấp cao, đều bởi hành trì sâu hoặc cạn. Ngài lại bảo: Nếu không Tín, Nguyện, dù trì niệm câu hồng danh cho đến gió thổi không vào, mưa sa chẳng lọt, vững chắc như tường đồng vách sắt, cũng không được vãng sanh. Người niệm Phật tinh chuyên mà thiếu Tín, Nguyện, tùy công phu sâu cạn kết quả chỉ được hưởng phước báu nhơn thiên, khi hết phước vẫn phải bị luân hồi như cũ.
Như tại Việt Nam ta, vào đời Hậu Lê, có một vị sư ở chùa Quang Minh, công hạnh niệm Phật tuy sâu mà vì Nguyện tâm không chí thiết, nên khi mãn phần chuyển sanh làm một vị đế vương triều nhà Thanh bên Trung Hoa. Về sau nhà vua nhân dùng nước giếng của chùa ấy để rửa vết chữ son ghi tiền kiếp của mình trên vai, mới cảm khái làm mấy bài thi.
Trong ấy có hai câu:
Ngã bảng Tây Phương nhứt Phật tử,
Vân hà lạc tại đế vương gia ?
Ý nói: Ta vốn là con của Phật A Di Đà ở Tây Phương, cớ sao lại lạc vào nhà đế vương như thế này ? Tuy vua biết kiếp trước mình là vị sa môn niệm Phật ở chùa Quang Minh, nhưng vì trong ngôi vị đế vương, cảnh phước lạc quá nhiều, nên cũng không tu hành được. Niệm Phật mà thiếu Tín, Nguyện kết quả là như thế !
Cho nên, xét kỹ lại lời của Ngẫu Ích đại sư, ta thấy phẩm vị cao thấp không phải là vấn đề, mà vấn đề chính là: được vãng sanh cùng chăng. Mà muốn được vãng sanh, Tín Nguyện là điều kiện phải có, và điểm cần yếu nhất lại là chữ Nguyện.
Đại sư lại nhấn mạnh: Nếu Tín Nguyện bền chắc, khi lâm chung, chỉ xưng danh hiệu mười niệm hay một niệm, cũng quyết được vãng sanh. Trái lại, công hành trì tuy vững như vách sắt tường đồng, mà Tín Nguyện yếu, kết quả chỉ hưởng được phước báo nhơn thiên mà thôi. Lời này chỉ rõ: thà Tín, Nguyện bền chắc, dù phần Hạnh kém ít cũng được vãng sanh giải thoát. Xem đây ta thấy, đối với người tu Tịnh Độ, tâm Nguyện chơn thiết có tánh cách trọng yếu là dường bao !
Thật sự mà nói, đại đa số người niệm Phật đều được quả báo này, cho nên người thật sự vãng sanh thế giới Cực Lạc không nhiều. Do đó chúng ta hiểu được, ở thế giới này, người làm quan lớn, giàu có, thông minh trí huệ, có địa vị ở xã hội, được mọi người tôn kính, những người này có nhân gì? Công phu niệm Phật chưa đến nơi đến chốn. Năm xưa thầy Lý thường nói với chúng tôi: Một vạn người niệm Phật, thật sự được vãng sanh chỉ có ba người, năm người mà thôi. Vậy còn người không thể vãng sanh? Không thể vãng sanh thì được điều này, được những phước báo này, phước báo trời người. Nếu không phải nhờ niệm Phật, mà muốn được phước báo trời người, được đại phú đại quý trong cõi trời người, làm đế vương, làm tướng, ngày nay gọi là nhà doanh nghiệp lớn, có hàng tỷ của cải, đều là người niệm Phật, đều là đệ tử nhà Phật, được quả báo thù thắng như vậy, không phải không có nguyên nhân mà có được, giàu có là quả báo, quả ắt có nhân.
Cho nên nghe danh được phước, đời sau đều sanh vào nhà tôn quý. Các căn là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), sáu căn không thiếu, đầy đủ. Lời nói này trong sách Hội Sớ rất hay, vẫn có không ít người sanh vào nhà thấp hèn, nghèo khó thấp hèn, người thế gian xem thường, khinh mạn, đây là gì vậy? Không thể làm lợi ích rộng lớn, tích thiện không nhiều. Chúng ta đều có thể thấy được, trong đồng tham đạo hữu chúng ta, quý vị quan sát tỉ mỉ, có rất nhiều người thích làm việc thiện, bản thân ăn xài tiết kiệm, dùng tiền tiết kiệm được làm việc tốt, lợi ích chúng sanh, những người này đời sau sanh vào nhà tôn quý. Còn người rất keo kiệt, chỉ muốn chính mình hưởng thụ, không muốn chăm sóc người khác, đời sau được thân người, sanh vào nhà thấp hèn. Chẳng thể không thuộc lòng kinh, không thuộc lòng thì không hiểu rõ những chân tướng sự thật này. Người học Phật đều hiểu, không thể nói không hiểu nhân quả báo ứng, đều hiểu. Tuy là hiểu, nhưng hiểu không đủ sâu, không đủ thấu triệt, cho nên trong sự hành trì, vẫn là niệm niệm đều nghĩ đến lợi ích của chính mình.
Tập 191
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Nếu không Tín, Nguyện, dù trì niệm câu hồng danh cho đến gió thổi không vào, mưa sa chẳng lọt, vững chắc như tường đồng vách sắt, cũng không được vãng sanh. Người niệm Phật tinh chuyên mà thiếu Tín, Nguyện, tùy công phu sâu cạn kết quả chỉ được hưởng phước báu nhơn thiên, khi hết phước vẫn phải bị luân hồi như cũ.
Tín, Nguyện, Hạnh còn gọi là ba món tư lương của môn Tịnh Độ. Ví như người đi xa phải cụ bị chăn mùng thuốc men, thức ăn mặc, và tiền bạc, để có đủ sự cần dùng khi lên đường. Người tu Tịnh Độ cũng thế, thiếu lòng tin không thể phát Nguyện.
Có Tín, Nguyện mà chẳng thật hành, tức tu phần Hạnh, chỉ là Tín, Nguyện suông. Và nếu Hạnh đầy đủ mà thiếu sót Tín, Nguyện thì sự thật hành đó lạc lõng, không có tiêu chuẩn, đường lối. Cho nên Tín, Nguyện, Hạnh là tư lương của kẻ đi đường xa về Cực Lạc. Đối với sự vãng sanh, ba điều này có tánh cách liên đới nhau, thiếu một, tất không thành tựu.
* Ngẫu Ích đại sư, một bậc tôn túc về Tịnh Độ đã dạy: Được vãng sanh cùng chăng toàn do Tín, Nguyện có hay không, phẩm vị thấp cao, đều bởi hành trì sâu hoặc cạn. Ngài lại bảo: Nếu không Tín, Nguyện, dù trì niệm câu hồng danh cho đến gió thổi không vào, mưa sa chẳng lọt, vững chắc như tường đồng vách sắt, cũng không được vãng sanh. Người niệm Phật tinh chuyên mà thiếu Tín, Nguyện, tùy công phu sâu cạn kết quả chỉ được hưởng phước báu nhơn thiên, khi hết phước vẫn phải bị luân hồi như cũ.
Như tại Việt Nam ta, vào đời Hậu Lê, có một vị sư ở chùa Quang Minh, công hạnh niệm Phật tuy sâu mà vì Nguyện tâm không chí thiết, nên khi mãn phần chuyển sanh làm một vị đế vương triều nhà Thanh bên Trung Hoa. Về sau nhà vua nhân dùng nước giếng của chùa ấy để rửa vết chữ son ghi tiền kiếp của mình trên vai, mới cảm khái làm mấy bài thi.
Trong ấy có hai câu:
Ngã bảng Tây Phương nhứt Phật tử,
Vân hà lạc tại đế vương gia ?
Ý nói: Ta vốn là con của Phật A Di Đà ở Tây Phương, cớ sao lại lạc vào nhà đế vương như thế này ? Tuy vua biết kiếp trước mình là vị sa môn niệm Phật ở chùa Quang Minh, nhưng vì trong ngôi vị đế vương, cảnh phước lạc quá nhiều, nên cũng không tu hành được. Niệm Phật mà thiếu Tín, Nguyện kết quả là như thế !
Cho nên, xét kỹ lại lời của Ngẫu Ích đại sư, ta thấy phẩm vị cao thấp không phải là vấn đề, mà vấn đề chính là: được vãng sanh cùng chăng. Mà muốn được vãng sanh, Tín Nguyện là điều kiện phải có, và điểm cần yếu nhất lại là chữ Nguyện.
Đại sư lại nhấn mạnh: Nếu Tín Nguyện bền chắc, khi lâm chung, chỉ xưng danh hiệu mười niệm hay một niệm, cũng quyết được vãng sanh. Trái lại, công hành trì tuy vững như vách sắt tường đồng, mà Tín Nguyện yếu, kết quả chỉ hưởng được phước báo nhơn thiên mà thôi. Lời này chỉ rõ: thà Tín, Nguyện bền chắc, dù phần Hạnh kém ít cũng được vãng sanh giải thoát. Xem đây ta thấy, đối với người tu Tịnh Độ, tâm Nguyện chơn thiết có tánh cách trọng yếu là dường bao !
Thật sự mà nói, đại đa số người niệm Phật đều được quả báo này, cho nên người thật sự vãng sanh thế giới Cực Lạc không nhiều. Do đó chúng ta hiểu được, ở thế giới này, người làm quan lớn, giàu có, thông minh trí huệ, có địa vị ở xã hội, được mọi người tôn kính, những người này có nhân gì? Công phu niệm Phật chưa đến nơi đến chốn. Năm xưa thầy Lý thường nói với chúng tôi: Một vạn người niệm Phật, thật sự được vãng sanh chỉ có ba người, năm người mà thôi. Vậy còn người không thể vãng sanh? Không thể vãng sanh thì được điều này, được những phước báo này, phước báo trời người. Nếu không phải nhờ niệm Phật, mà muốn được phước báo trời người, được đại phú đại quý trong cõi trời người, làm đế vương, làm tướng, ngày nay gọi là nhà doanh nghiệp lớn, có hàng tỷ của cải, đều là người niệm Phật, đều là đệ tử nhà Phật, được quả báo thù thắng như vậy, không phải không có nguyên nhân mà có được, giàu có là quả báo, quả ắt có nhân.
Cho nên nghe danh được phước, đời sau đều sanh vào nhà tôn quý. Các căn là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), sáu căn không thiếu, đầy đủ. Lời nói này trong sách Hội Sớ rất hay, vẫn có không ít người sanh vào nhà thấp hèn, nghèo khó thấp hèn, người thế gian xem thường, khinh mạn, đây là gì vậy? Không thể làm lợi ích rộng lớn, tích thiện không nhiều. Chúng ta đều có thể thấy được, trong đồng tham đạo hữu chúng ta, quý vị quan sát tỉ mỉ, có rất nhiều người thích làm việc thiện, bản thân ăn xài tiết kiệm, dùng tiền tiết kiệm được làm việc tốt, lợi ích chúng sanh, những người này đời sau sanh vào nhà tôn quý. Còn người rất keo kiệt, chỉ muốn chính mình hưởng thụ, không muốn chăm sóc người khác, đời sau được thân người, sanh vào nhà thấp hèn. Chẳng thể không thuộc lòng kinh, không thuộc lòng thì không hiểu rõ những chân tướng sự thật này. Người học Phật đều hiểu, không thể nói không hiểu nhân quả báo ứng, đều hiểu. Tuy là hiểu, nhưng hiểu không đủ sâu, không đủ thấu triệt, cho nên trong sự hành trì, vẫn là niệm niệm đều nghĩ đến lợi ích của chính mình.
- Category
- Hòa Thượng Tịnh Không