Thầy Định Thành -《TÁN LƯ HƯƠNG》

0 Views
Đại Nguyện Nguyện 18 trong 48 Đại Nguyện của Phật A Di Đà : Nếu con được thành Phật, mà chúng sanh trong mười phương dốc lòng tin tưởng, muốn sanh về cõi nước con chỉ trong mười niệm, nếu không được toại nguyện, thì con chẳng trụ ở Ngôi Chánh Giác, trừ kẻ phạm năm tội nghịch và gièm chê Chánh Pháp. Nam Mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật Lời Khuyên Tịnh Độ (Ấn Quang Đại Sư) “ Ấn Quang từ Tây qua Ðông, từ Bắc xuống Nam, qua lại hơn vạn dặm, gặp gỡ nhiều người. Trong số đó, lắm kẻ bình nhật tự vỗ ngực là bậc thông Tông, thông Giáo, coi Tịnh Ðộ như uế vật, chỉ sợ nó làm bẩn lây đến mình. Lúc lâm chung, đa số chân loạn tay cuống, kêu cha gào mẹ. Trong số ấy, có những người trì giới niệm Phật già giặn, chắc thật, dù Tín Nguyện chưa đến mức cùng cực, tướng lành chẳng hiện, nhưng đều an nhiên mạng chung. Vì sao như vậy? Là vì tâm thuỷ trong lặng, do phân biệt nên xao động, đục ngầu, sóng thức trào dâng. Do Phật hiệu nên tâm thuỷ ngưng lặng. Bởi thế, kẻ thượng trí chẳng bằng kẻ hạ ngu, biến quá khéo thành vụng về lớn vậy!”
Published
Tư liệu trích lục: Định Thành Đạo Tràng và Tuấn Nguyễn.
VIỆT NAM THIỀN TỔ - KHƯƠNG TĂNG HỘI THIỀN SƯ
Theo sử học, Phật giáo có mặt tại vùng đất Giao Chỉ từ rất sớm khoảng thế kỷ thứ III-II TCN, do các nhà sư người Thiên Trúc theo các thuyền nhân mà truyền bá đến. Sau Công nguyên, ở đất Giao Chỉ ngày ấy, tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu, xuất hiện một vị Long tượng của Phật pháp, tôn hiệu của ngài là Thiền sư KHƯƠNG TĂNG HỘI.
Dựa theo Cao Tăng truyện và Phật giáo sử sơ ta có dữ liệu về Ngài như sau: KHƯƠNG TĂNG HỘI sinh vào khoảng thập niên 180-190, Cha là người Khương Cư thuộc miền Bắc Ấn Độ ngày nay, Mẹ là người Giao Châu, Thiền sư được sanh trưởng tại đây. Thời thơ bé, song thân của Ngài thác hóa, sau thời gian để tang, Ngài bèn xuất gia tu học tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu rất thịnh và có quy củ (thuộc Bắc Ninh ngày nay). Với biện tài vô ngại, biển huệ mênh mông Ngài đã dịch thuật và chế tác các kinh sách như: An Ban Thủ Ý, Pháp Cảnh, Đạo Thọ, Lục Độ Tập, Lục Độ Yếu Mục, Nê Hoàn Phạm Bối, Đạo Hành Bồ Tát, Lục Độ Tập, Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu,…đều là nền tảng vững chắc cho Phật giáo Nguyên Thủy Nam Tông và Tư tưởng Thiền quán Đại thừa thời bấy giờ và vẫn có giá trị cho đến ngày nay.
Trong đó, An Ban Thủ Ý là kinh căn bản Thiền quán của Phật giáo Nam tông mà qua hơn 2000 năm, chư Tăng các nước Phật giáo Theraveda như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan,… đều thực tập hành trì làm nền tảng cho đời sống tịnh tu. Ngày nay, hai phương pháp Samatha (dừng Chỉ loạn tâm) và Vipassana (Quán sát tự tánh) là dựa trên ý chỉ của kinh này và kinh Tứ Niệm Xứ. Thiên Thai tông Trí Giả Thiền sư cũng dựa trên ý của Samatha và Vipassana mà viết quyển Đại thừa Chỉ Quán. Vậy, An Ban Thủ Ý là nền tảng căn bản chung cho tiến trình thực tập Thiền quán, siêu việt cả Nam-Bắc tông gồm thâu các hệ phái Pháp hành trong Phật giáo ở Đông phương.
Không chỉ dừng lại ở việc giáo hóa dân chúng ở đất Giao Chỉ, Ngài còn vân du giáo hóa lên phía Bắc-nước Ngô khoảng năm 247. Tại nước Ngô, nhờ vào giới đức và oai lực của Thiền sư đã nhiếp phục Ngô Tôn Quyền quy hướng Tam Bảo, cho xây dựng ngôi chùa đầu tiên tại đây mang tên Kiến Sơ, tiếp chúng độ tăng cho xuất gia. Do vì có Tăng chúng tu học, Thiền sư thấy cần có quy củ để thúc liễm thân tâm, Ngài đã trước tác bộ Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu, quyển đây lưu truyền mãi về sau làm gốc tích cho Thiền gia quy củ. Đến thời nhà Minh có Tám muội Luật Tổ nhuận bút khảo đính, sau rốt cuối đời Thanh có ngài Kiến Nguyệt Độc Thể hiệu đính. Nhưng vì bị yểm đi nguồn gốc nên không rõ chính xác tác giả của bộ Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu ngày nay. Song, tại đạo tràng Luật tông hành trì Giới luật của ngài Kiến Nguyệt, vẫn còn lưu giữ quyển Truyền Giới nghi phạm và bản tại Đài Loan, vẫn còn ghi chép đại ý như sau: Thời nhà Ngô vùng Kiến Nghiệp, có KHƯƠNG TĂNG HỘI Thiền Sư, trích dẫn các thi kệ trong phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm và chơn ngôn trong Mật Bộ trước tác thành quyển Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu để truyền dạy.
Nhờ sự truyền bá của Thiền sư làm tiền đề để thành lập nên hai trung tâm Phật giáo Lạc Dương và Bành Thành, cũng như làm cơ sở để Thiền tông Trung Hoa có thể phát triển rực rỡ.
Năm 1096, thời nhà Lý, Trí Thông Thiền sư thuộc dòng Vô Ngôn Thông có trình bày với Phù Cảm Linh Nhân Hoàng Thái Hậu: “Hiện nay, truyền thừa của dòng Vô Ngôn Thông là Thiền sư Mai Viên và Nhan Quảng Trí; truyền thừa của dòng KHƯƠNG TĂNG HỘI là Lôi Hà Trạch…”. Như thế chứng minh rằng KHƯƠNG TĂNG HỘI đã có truyền thừa và dòng thiền đó vẫn còn hiện diện và sinh hoạt mạnh mẽ cho đến cuối thế kỷ thứ XI. Sau đó vì thiếu tài liệu do những biến cố lịch sử khắc nghiệt, cho nên ta không còn nghe nói đến nữa; nhưng điều đó cũng không có nghĩa là dòng truyền thừa Ngài đã bị mai một.
Tuy nhiên, do vì biến cố đau thương của chiến tranh, sự thờ ơ của sử sách, mà có lẽ, hàng hậu học chúng ta đã vô tình quên đi một vị Tổ Sư KHƯƠNG TĂNG HỘI đầy ân tình ở trung tâm Phật giáo Luy Lâu năm nào. Tấm màn đen u tịch của lịch sử đã che đi hình bóng thân thương của Thầy Tổ ta, để rồi con cháu vội chạy theo ngọn lá sum suê, mà quên đi gốc rễ vững chãi chống đỡ cả tàng cây tươi tốt. Ta hãy thôi ngước nhìn màu xanh tươi mát mắt, hãy đến bên gốc cây kia ôm trọn cái thân gồ ghề sần nhám, hãy cảm nhận bao công ơn của bậc Tiền Hiền, hãy cùng nhau xưng tán, ca vang sự đóng góp và cống hiến thầm lặng của bậc Tổ Thầy.
Thầy Định Thành dạy: “Vật hữu bổn mạt, Sự hữu thỉ chung, Tri sở tiên hậu, Tắc cận đạo hĩ”. Việc nghiên cứu và hiểu đúng về vị Sơ tổ Thiền Việt Nam nói riêng và lịch sử Phật giáo dân tộc nói chung là rất cần thiết. Vì chỉ khi hiểu đúng về quá khứ của mình, xác định được bản sắc văn hóa của dân tộc mình, nhìn nhận khách quan về lịch sử của Phật giáo tại Việt Nam, thì chúng ta mới có thể có tự tin trong đối thoại và hội nhập với nền Phật giáo toàn cầu. Quan trọng hơn cả, là cần công nhận và tôn vinh ân tình của Cha Ông chúng ta, các bậc Tiền Hiền mô phạm của đất Việt thân thương.
Hướng về Thiền Tổ nước Việt Nam - Thiền sư KHƯƠNG TĂNG HỘI.
Category
Mantra - Trì Tụng Mật Chú
Tags
ThayDinhThanh, phuongtruongDinhThanh, DinhThanhtu