LƯỢC TRUYỆN PHÁP NHIÊN THƯỢNG NHÂN
Người dịch: THÍCH NHUẬN HÀ
Người đọc: Chánh Pháp - Diệu Hương
---------
Pháp Nhiên (1133-1212) là vị tăng sinh vào cuối thời kỳ Bình An và trước thời kỳ Liêm Thương. Ngài là tổ sư khai sơn tông Tịnh Độ, người Mĩ Tác (nay là huyện Cương Sơn). Ngài là con của Áp lãnh sứ Tất Gian Thời Quốc, vâng lệnh triều đình nên cha ngài đảm nhiệm cai trị quận Cữu Mễ, mẹ họ Tần. Cha mẹ từng than thở đã hơn 40 tuổi rồi mà chưa có con nối dõi, do đó cha mẹ tắm gội sạch sẽ đến trước chánh điện của chùa để cầu nguyện, bảy ngày bảy đêm tụng niệm không giải đãi. Đến đêm ngày thứ bảy giữa lúc tỉnh lúc mê, mẹ ngài thấy một lão tăng mang một con dao đưa cho bà để cạo tóc và bảo bà nuốt. Từ đây bà hoài thai, cha ngài lại đoán chắc là sinh con trai, và xuất gia làm một vị Sư của một tông phái trong đời. Sau này mẹ ngài tự nhiên thân tâm thường nhu hòa hiền hậu, không có khổ não, phát tâm ăn chay trường và hết lòng tin kính tam bảo.
Lúc đản sanh ngài có hai luồng ánh sáng trắng, từ trên không chiếu xuống, treo lơ lửng ở trên cây tùng trước sân, tiếng chuông ngân vang, ánh sáng rực rỡ, do việc như vậy mà cây này được đặt tên là Lưỡng Phan Lương.
Đầu của ngài vuông vắn có góc, mắt có hai tròng, màu vàng có ánh sáng. Lúc nhỏ ngài khởi tâm hướng về phía Tây thành tâm cung kính, lại tự xưng là Thế Chí, cho nên cha mẹ đặt tên cho ngài là Thế Chí Hoàn.
...................
Sau khi ngài vãng sanh 16 năm, các đệ tử mở khám đá đựng di thể của ngài, thì toàn thân vẫn như cũ, diện mạo từ hòa, hương lạ thơm ngát. Đệ tử tăng tục hơn nghìn người hộ tống di hài của ngài đến Tây Giao để làm lễ trà tỳ. Trong lúc làm lễ hương lạ tỏa ra, mây ngũ sắc phủ xuống cây tùng, nhân đây có tên là Tử vân tùng, và xây dựng niệm Phật đường, nơi đây thường xuyên niệm Phật, hiện nay là chùa Quang Minh.
Lúc Pháp Nhiên vãng sanh thì có mây lành ngũ sắc lạ hiện ra. Khi trà tỳ thì di cốt của ngài cũng có tướng thù thắng, nói sơ lược như trên. Nhưng lúc sống thì điềm linh ứng hiện, và sau khi ngài diệt độ liền có cảm ứng hiện ra, đặc biệt rất khó để lấy sự ghi chép tường tận được. Điềm lành ứng hiện này ở khắp mọi nơi hiển thị Pháp Nhiên chẳng phải là hạng phàm phu trong sanh tử bị nghiệp thọ báo, mà là đại quyền Bồ-tát từ Cực Lạc quay thuyền từ trở lại Ta-bà cứu độ chúng sanh. Ngài vì thương xót hàng phàm phu ngu muội trong đời ngũ trược, nên đem ánh sáng vô biên đến cõi Ta-bà, mở pháp môn Tịnh Độ, dạy nghĩa lý Nhất hướng chuyên niệm, nói về lý thì hạng phàm phu tội chướng sâu nặng cũng vãng sanh về Báo độ, đồng với đức Phật Thích-ca 80 năm ứng hóa đã xong, đầu Bắc diện Tây, tụng bại kệ: “Quang minh biến chiếu, thập phương thế giới, niệm Phật chúng sanh, nhiếp thủ bất xả”, không trở về mà trở về Tịnh Độ. Những tác phẩm của Sư gồm có: Tuyển trạch bản nguyện niệm Phật, Vô Lượng Thọ kinh thích, A-di-đà kinh thích...
Người đọc: Chánh Pháp - Diệu Hương
---------
Pháp Nhiên (1133-1212) là vị tăng sinh vào cuối thời kỳ Bình An và trước thời kỳ Liêm Thương. Ngài là tổ sư khai sơn tông Tịnh Độ, người Mĩ Tác (nay là huyện Cương Sơn). Ngài là con của Áp lãnh sứ Tất Gian Thời Quốc, vâng lệnh triều đình nên cha ngài đảm nhiệm cai trị quận Cữu Mễ, mẹ họ Tần. Cha mẹ từng than thở đã hơn 40 tuổi rồi mà chưa có con nối dõi, do đó cha mẹ tắm gội sạch sẽ đến trước chánh điện của chùa để cầu nguyện, bảy ngày bảy đêm tụng niệm không giải đãi. Đến đêm ngày thứ bảy giữa lúc tỉnh lúc mê, mẹ ngài thấy một lão tăng mang một con dao đưa cho bà để cạo tóc và bảo bà nuốt. Từ đây bà hoài thai, cha ngài lại đoán chắc là sinh con trai, và xuất gia làm một vị Sư của một tông phái trong đời. Sau này mẹ ngài tự nhiên thân tâm thường nhu hòa hiền hậu, không có khổ não, phát tâm ăn chay trường và hết lòng tin kính tam bảo.
Lúc đản sanh ngài có hai luồng ánh sáng trắng, từ trên không chiếu xuống, treo lơ lửng ở trên cây tùng trước sân, tiếng chuông ngân vang, ánh sáng rực rỡ, do việc như vậy mà cây này được đặt tên là Lưỡng Phan Lương.
Đầu của ngài vuông vắn có góc, mắt có hai tròng, màu vàng có ánh sáng. Lúc nhỏ ngài khởi tâm hướng về phía Tây thành tâm cung kính, lại tự xưng là Thế Chí, cho nên cha mẹ đặt tên cho ngài là Thế Chí Hoàn.
...................
Sau khi ngài vãng sanh 16 năm, các đệ tử mở khám đá đựng di thể của ngài, thì toàn thân vẫn như cũ, diện mạo từ hòa, hương lạ thơm ngát. Đệ tử tăng tục hơn nghìn người hộ tống di hài của ngài đến Tây Giao để làm lễ trà tỳ. Trong lúc làm lễ hương lạ tỏa ra, mây ngũ sắc phủ xuống cây tùng, nhân đây có tên là Tử vân tùng, và xây dựng niệm Phật đường, nơi đây thường xuyên niệm Phật, hiện nay là chùa Quang Minh.
Lúc Pháp Nhiên vãng sanh thì có mây lành ngũ sắc lạ hiện ra. Khi trà tỳ thì di cốt của ngài cũng có tướng thù thắng, nói sơ lược như trên. Nhưng lúc sống thì điềm linh ứng hiện, và sau khi ngài diệt độ liền có cảm ứng hiện ra, đặc biệt rất khó để lấy sự ghi chép tường tận được. Điềm lành ứng hiện này ở khắp mọi nơi hiển thị Pháp Nhiên chẳng phải là hạng phàm phu trong sanh tử bị nghiệp thọ báo, mà là đại quyền Bồ-tát từ Cực Lạc quay thuyền từ trở lại Ta-bà cứu độ chúng sanh. Ngài vì thương xót hàng phàm phu ngu muội trong đời ngũ trược, nên đem ánh sáng vô biên đến cõi Ta-bà, mở pháp môn Tịnh Độ, dạy nghĩa lý Nhất hướng chuyên niệm, nói về lý thì hạng phàm phu tội chướng sâu nặng cũng vãng sanh về Báo độ, đồng với đức Phật Thích-ca 80 năm ứng hóa đã xong, đầu Bắc diện Tây, tụng bại kệ: “Quang minh biến chiếu, thập phương thế giới, niệm Phật chúng sanh, nhiếp thủ bất xả”, không trở về mà trở về Tịnh Độ. Những tác phẩm của Sư gồm có: Tuyển trạch bản nguyện niệm Phật, Vô Lượng Thọ kinh thích, A-di-đà kinh thích...
- Category
- Dharma





