LẤY QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, LÀM ĐẠI BIỂU ĐẠI TỪ,ĐẠI BI.
LẤY QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT LÀM ĐẠI BIỂU CHO ĐẠI TỪ ĐẠI BI
Lấy Quán Thế Âm Bồ-tát làm đại biểu cho đại từ đại bi. Từ bi chính là nhân từ bác ái, đem tâm chân thành yêu thương của chúng ta mở rộng đến khắp hư không pháp giới, yêu thương hết thảy chúng sanh như yêu thương chính bản thân mình, “ta và người không hai”. Nói rõ về sự và lý của điều này cũng có ba bộ kinh. Ba bộ Kinh mà Quán Thế Âm Bồ-tát đại biểu không phải là một bộ kinh riêng rẽ mà là một phần bên trong của Đại kinh. Bộ thứ nhất là trong Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài Đồng Tử tham phỏng Quán Thế Âm Bồ-tát, đoạn kinh văn nói về lời dạy của Quán Thế Âm Bồ-tát dành cho Thiện Tài Đồng Tử trong phẩm “Thiện Tài Đồng Tử năm mươi ba tham” là một đơn vị bộ phận. Đơn vị thứ hai là quyển thứ sáu trong Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh, Kinh Lăng Nghiêm có mười quyển, trong quyển thứ sáu Quán Thế Âm Bồ-tát báo cáo với Thế Tôn và cũng nói rõ với đại chúng là Ngài làm thế nào tu hành chứng quả, làm thế nào tu tâm từ bi, làm thế nào mở rộng tâm từ bi, yêu thương bảo hộ hết thảy chúng sanh. Bộ kinh thứ ba nằm trong Kinh Pháp Hoa, chính là “Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn Phẩm”, phẩm này hoàn toàn tường thuật về tâm từ bi bác ái được thực hiện trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội, thực hiện đối với các chủng loài khác nhau, dạy dỗ chúng ta làm thế nào để yêu thương hết thảy chúng sanh, giúp đỡ hết thảy chúng sanh. Quán Thế Âm Bồ-tát hiện nghìn tay nghìn mắt, kinh nghiệm của chúng ta biết là hai đôi tay của chúng ta rất thuận tiện, nếu có nhiều tay quá sẽ rất không thoải mái. Cho nên nghìn tay nghìn mắt của Quán Thế Âm là biểu pháp, không nên cho rằng Quán Thế Âm Bồ-tát thật sự có một nghìn đôi tay, nếu thế thì bạn hoàn toàn sai rồi. Nghìn tay là biểu thị đôi tay vạn năng, nghìn mắt là biểu thị sự quan sát tinh tế, chúng sanh khổ nạn ở những chỗ cực kỳ nhỏ bé, Ngài đều nhìn thấy rất rõ ràng, mắt thấy tay đến, sau khi nhìn thấy sẽ có sự giúp đỡ, không thể không cứu giúp, ý nghĩa biểu pháp là như vậy. Chúng ta nhìn thấy hình tượng này thì phải nghĩ đến khi nhìn thấy hết thảy những chúng sanh khổ nạn, chúng ta cần mạnh dạn trợ giúp, như vậy công đức tạo tượng sẽ thù thắng, bất khả tư nghì. Lại như Văn Thù Bồ-tát biểu thị trí huệ, biểu thị lí trí. Cũng là nói hiếu kính, nhân từ, bác ái là lý tánh chứ không phải tình cảm. Tình cảm sẽ sản sinh rất nhiều tệ nạn tật xấu, biểu pháp của Ngài là lý trí, không phải tình cảm.
Người phàm thế gian bị tình cảm chi phối, có sự thay đổi quá lớn. Hôn nhân ngày nay so với thời xưa không giống nhau. Thời xưa tuy sự kết hợp giữa người nam và người nữ là do cha mẹ sắp đặt và do lời mai mối, nhưng sâu xa trong suy nghĩ của cha mẹ không phải là dùng tình cảm để quyết định, mà suy nghĩ đến hạnh phúc của chính bạn, hạnh phúc của gia đình bạn và hạnh phúc của xã hội, cha mẹ suy nghĩ rất chu đáo. Cho nên tỷ lệ ly hôn rất thấp. Thời xưa rất ít khi nghe đến có việc ly hôn, vì sao vậy? Là do sự kết hợp của lý tánh chứ không phải tình cảm. Người ngày nay là sự kết hợp của tình cảm, không có lý tánh nên có kiểu sáng kết hôn, chiều ly hôn, thế thì thành kiểu gì đây! Bạn hiểu được sự khác biệt giữa tình cảm và lý trí là quá lớn. Cho nên ngày xưa không phải là tình cảm, mà có cùng một nhận thức chung, một phương hướng nỗ lực chung, như vậy kết hợp lại gọi là chí đồng đạo hợp, không phải là tình cảm, có tình cảm thì sẽ có sự biến hóa rất lớn. Cho nên Đức Phật dạy chúng ta: yêu thương cần dựa vào lý tánh, không phải là sự bốc đồng của tình cảm, Văn Thù Bồ-tát là đại biểu cho điều này. Phổ Hiền Bồ-tát đại biểu cho sự thực hiện, thực tiễn. Cho nên toàn bộ Phật pháp không nằm ngoài việc thực hiện: hiếu thân, tôn sư, nhân từ, bác ái, lý trí vào trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, thực hiện vào trong công việc của bạn, thực hiện vào trong việc xã giao sử xự đối người tiếp vật của bạn. Phật pháp Đại thừa dùng bốn vị đại Bồ-tát này làm đại biểu.
Trích Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 87)
Lấy Quán Thế Âm Bồ-tát làm đại biểu cho đại từ đại bi. Từ bi chính là nhân từ bác ái, đem tâm chân thành yêu thương của chúng ta mở rộng đến khắp hư không pháp giới, yêu thương hết thảy chúng sanh như yêu thương chính bản thân mình, “ta và người không hai”. Nói rõ về sự và lý của điều này cũng có ba bộ kinh. Ba bộ Kinh mà Quán Thế Âm Bồ-tát đại biểu không phải là một bộ kinh riêng rẽ mà là một phần bên trong của Đại kinh. Bộ thứ nhất là trong Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài Đồng Tử tham phỏng Quán Thế Âm Bồ-tát, đoạn kinh văn nói về lời dạy của Quán Thế Âm Bồ-tát dành cho Thiện Tài Đồng Tử trong phẩm “Thiện Tài Đồng Tử năm mươi ba tham” là một đơn vị bộ phận. Đơn vị thứ hai là quyển thứ sáu trong Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh, Kinh Lăng Nghiêm có mười quyển, trong quyển thứ sáu Quán Thế Âm Bồ-tát báo cáo với Thế Tôn và cũng nói rõ với đại chúng là Ngài làm thế nào tu hành chứng quả, làm thế nào tu tâm từ bi, làm thế nào mở rộng tâm từ bi, yêu thương bảo hộ hết thảy chúng sanh. Bộ kinh thứ ba nằm trong Kinh Pháp Hoa, chính là “Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn Phẩm”, phẩm này hoàn toàn tường thuật về tâm từ bi bác ái được thực hiện trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội, thực hiện đối với các chủng loài khác nhau, dạy dỗ chúng ta làm thế nào để yêu thương hết thảy chúng sanh, giúp đỡ hết thảy chúng sanh. Quán Thế Âm Bồ-tát hiện nghìn tay nghìn mắt, kinh nghiệm của chúng ta biết là hai đôi tay của chúng ta rất thuận tiện, nếu có nhiều tay quá sẽ rất không thoải mái. Cho nên nghìn tay nghìn mắt của Quán Thế Âm là biểu pháp, không nên cho rằng Quán Thế Âm Bồ-tát thật sự có một nghìn đôi tay, nếu thế thì bạn hoàn toàn sai rồi. Nghìn tay là biểu thị đôi tay vạn năng, nghìn mắt là biểu thị sự quan sát tinh tế, chúng sanh khổ nạn ở những chỗ cực kỳ nhỏ bé, Ngài đều nhìn thấy rất rõ ràng, mắt thấy tay đến, sau khi nhìn thấy sẽ có sự giúp đỡ, không thể không cứu giúp, ý nghĩa biểu pháp là như vậy. Chúng ta nhìn thấy hình tượng này thì phải nghĩ đến khi nhìn thấy hết thảy những chúng sanh khổ nạn, chúng ta cần mạnh dạn trợ giúp, như vậy công đức tạo tượng sẽ thù thắng, bất khả tư nghì. Lại như Văn Thù Bồ-tát biểu thị trí huệ, biểu thị lí trí. Cũng là nói hiếu kính, nhân từ, bác ái là lý tánh chứ không phải tình cảm. Tình cảm sẽ sản sinh rất nhiều tệ nạn tật xấu, biểu pháp của Ngài là lý trí, không phải tình cảm.
Người phàm thế gian bị tình cảm chi phối, có sự thay đổi quá lớn. Hôn nhân ngày nay so với thời xưa không giống nhau. Thời xưa tuy sự kết hợp giữa người nam và người nữ là do cha mẹ sắp đặt và do lời mai mối, nhưng sâu xa trong suy nghĩ của cha mẹ không phải là dùng tình cảm để quyết định, mà suy nghĩ đến hạnh phúc của chính bạn, hạnh phúc của gia đình bạn và hạnh phúc của xã hội, cha mẹ suy nghĩ rất chu đáo. Cho nên tỷ lệ ly hôn rất thấp. Thời xưa rất ít khi nghe đến có việc ly hôn, vì sao vậy? Là do sự kết hợp của lý tánh chứ không phải tình cảm. Người ngày nay là sự kết hợp của tình cảm, không có lý tánh nên có kiểu sáng kết hôn, chiều ly hôn, thế thì thành kiểu gì đây! Bạn hiểu được sự khác biệt giữa tình cảm và lý trí là quá lớn. Cho nên ngày xưa không phải là tình cảm, mà có cùng một nhận thức chung, một phương hướng nỗ lực chung, như vậy kết hợp lại gọi là chí đồng đạo hợp, không phải là tình cảm, có tình cảm thì sẽ có sự biến hóa rất lớn. Cho nên Đức Phật dạy chúng ta: yêu thương cần dựa vào lý tánh, không phải là sự bốc đồng của tình cảm, Văn Thù Bồ-tát là đại biểu cho điều này. Phổ Hiền Bồ-tát đại biểu cho sự thực hiện, thực tiễn. Cho nên toàn bộ Phật pháp không nằm ngoài việc thực hiện: hiếu thân, tôn sư, nhân từ, bác ái, lý trí vào trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, thực hiện vào trong công việc của bạn, thực hiện vào trong việc xã giao sử xự đối người tiếp vật của bạn. Phật pháp Đại thừa dùng bốn vị đại Bồ-tát này làm đại biểu.
Trích Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 87)
- Category
- Hòa Thượng Tịnh Không