HÌNH ẢNH CHÀNG CÙNG TỬ TRONG KINH PHÁP HOA

5 Views
Đại Nguyện Nguyện 18 trong 48 Đại Nguyện của Phật A Di Đà : Nếu con được thành Phật, mà chúng sanh trong mười phương dốc lòng tin tưởng, muốn sanh về cõi nước con chỉ trong mười niệm, nếu không được toại nguyện, thì con chẳng trụ ở Ngôi Chánh Giác, trừ kẻ phạm năm tội nghịch và gièm chê Chánh Pháp. Nam Mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật Lời Khuyên Tịnh Độ (Ấn Quang Đại Sư) “ Ấn Quang từ Tây qua Ðông, từ Bắc xuống Nam, qua lại hơn vạn dặm, gặp gỡ nhiều người. Trong số đó, lắm kẻ bình nhật tự vỗ ngực là bậc thông Tông, thông Giáo, coi Tịnh Ðộ như uế vật, chỉ sợ nó làm bẩn lây đến mình. Lúc lâm chung, đa số chân loạn tay cuống, kêu cha gào mẹ. Trong số ấy, có những người trì giới niệm Phật già giặn, chắc thật, dù Tín Nguyện chưa đến mức cùng cực, tướng lành chẳng hiện, nhưng đều an nhiên mạng chung. Vì sao như vậy? Là vì tâm thuỷ trong lặng, do phân biệt nên xao động, đục ngầu, sóng thức trào dâng. Do Phật hiệu nên tâm thuỷ ngưng lặng. Bởi thế, kẻ thượng trí chẳng bằng kẻ hạ ngu, biến quá khéo thành vụng về lớn vậy!”
Published
HÌNH ẢNH CHÀNG CÙNG TỬ TRONG KINH PHÁP HOA
NGUYÊN TÁC: PHÁP SƯ TỊNH TÔNG
Người Dịch: Thích nữ Hòa Hiệp
Người Đọc: Diệu Hương
------------
Trong kinh Vô Lượng Thọ nói:
Nếu có chúng sanh nào dùng tâm nghi hoặc để tu các công đức, nguyện sanh về cõi nước kia, chẳng hiểu rõ Phật trí, Bất tư nghị trí, Bất khả xưng trí, Đại thừa quảng trí, Vô đẳng vô luận tối thượng thắng trí, đối với các trí này nghi hoặc chẳng tin; nhưng do tin tội phước, tu tập thiện căn, nguyện sanh về cõi nước ấy.
Họ vẫn tin tưởng đạo lý nhân quả báo ứng, tội phước, đối với chúng sanh như thế thì làm sao giảng chuyên tu niệm Phật thuần lại càng thuần chứ? Bởi lẽ họ vẫn không có trí tuệ và thiện căn này, vẫn không thể tin Phật trí, chuyên nhất niệm Phật, thế thì sẽ nói với họ: “Hãy tin tội phước, tạo ác thì phải chịu tội, làm thiện là điều tốt, bạn như thế, Phật A-di-đà nhất định cứu độ bạn, hồi hướng tam phước nhất định được vãng sanh”. Nhưng đây chẳng phải là bản ý của Phật Thích-ca Mâu-ni, mà là nói theo căn cơ của họ như thế.
Giống như ví dụ chàng cùng tử trong kinh Pháp hoa, đứa con này đã lưu lạc bên ngoài nhiều năm, bây giờ đầu tóc rối bời, mặt đầy bụi bặm, quần áo tơi tả, nợ nần ngập mặt, thân thể máu mủ ghẻ lở, vô cùng nghèo nàn khốn đốn. Cha anh ta là một trưởng giả giàu có, ông ấy nhận ra anh, vừa nhìn thì biết là tìm được con mình rồi, ông hy vọng anh ta lập tức về nhà, đây là tâm ý của cha. Thế nhưng, vì đứa con rời xa cha đã quá lâu, anh không biết đó là cha mình, cũng chẳng biết thân phận và địa vị của cha như thế nào, anh thầm nghĩ đây là ông chủ lớn, hay chủ trang viên lớn nào đó thôi. Bản thân anh là kẻ lang thang, từ nhỏ đã đi xin ăn, cho nên trong lòng anh có khoảng cách rất lớn với cha, nếu bảo anh mau chóng về nhà thì không thể được, anh sẽ la làng bỏ chạy:
- Đây là cha tôi sao? Không thể nào! Nhìn bộ dạng của tôi thế này, cho dù là cha cũng đâu thể nào như thế được chứ?
Cho nên, nếu anh ta đến gần cửa nhà của ông đại trưởng giả thì có lẽ anh ta sẽ nghĩ: “Cho dù bảo tôi làm công, chà nhà vệ sinh cho ông ấy cũng được”, anh ta chỉ có chí hướng đó. Lúc này, cha của anh ta phải làm sao? Với trình độ của anh ta, cha anh sẽ bảo:
- Được, thế thì con đổ phân, dọn vệ sinh giúp ta nhé!
Nhưng thâm ý của cha là để anh đổ phân phải không? Song, ngay lúc này cha con chẳng thể nhận nhau, chỉ có thể nói như thế mà thôi!
Pháp môn niệm Phật cũng như vậy, trước mắt thì giảng Định thiện quán, Tán thiện quán, những điều này đều là công việc “đổ phân”, từ từ điều chỉnh, trừ bỏ tạp nhiễm, tạp cấu trong tâm hành giả, để cho tâm họ dần dần thanh tịnh.
Sau đó, đứa con ở trong trang viên thấm thoắt thời gian lâu, ông đại trưởng giả dần dần tiếp cận đứa con, cùng làm việc với con, quan hệ cha con cũng dần dần thân thiết, ông nói với con:
- Ta thấy con rất tận tâm, rất thật thà. Ta không có con cái, con làm con của ta nhé!
Cha chỉ có thể nói làm con trước, nếu nói ngay là con ông thì đứa con sẽ thất kinh bỏ chạy. Đứa con ngẫm nghĩ một hồi, mình ở đây cũng được thời gian lâu rồi, ông chủ cũng vô cùng từ bi, “được thôi!”, anh liền đồng ý làm con ông đại trưởng giả, tiếp tục công việc rất sốt sắng.
Trải qua như thế 20 năm. Một hôm, vị đại trưởng giả tập hợp tất cả bà con thân thích lại, ông nói:
- Hôm nay tôi mở cuộc họp báo để tuyên bố một việc vô cùng quan trọng!
Sau đó, ông liền nói:
- Vào ngày đó tháng đó, con tôi bị mất tích, tôi tìm kiếm con như thế đó, tiếp cận con như thế đó, bồi dưỡng con tôi như thế đó.
Đứa con vừa nghe, chợt nghĩ: “Người được nói đến đó không phải là tôi đấy chứ?”. Trong lòng anh đã có sự chuẩn bị. Ông trưởng giả lại nói tiếp:
- Hiện nay, tôi đã tìm thấy con tôi rồi, bao nhiêu trang viên tôi có, tất cả tài sản của tôi, đều giao hết cho nó!
Lúc này, cha con mới nhận nhau!
Phật Thích-ca Mâu-ni đến thế gian này, giao câu danh hiệu Nam-mô A-di-đà Phật cho chúng ta, những pháp được giảng trước đây rất nhiều, dẫn dắt quanh co nhiều lối vô kể. Tuy Báo thân của Phật Thích-ca Mâu-ni ở nước Vô Thắng, nhưng đến thế gian này thì thị hiện thành một vị Tỳ-kheo mặt vàng, vẫn còn phải tu hành, vẫn còn phải đến sông Ni-liên-thiền tắm rửa, v.v., như thế là để từ từ giáo hóa chúng ta.
Chúng ta nhìn vào điểm này thì biết, “Tạp hạnh chẳng phải là bản ý của Đức Thế Tôn”. Người tu Tạp hạnh, không thấu hiểu tâm ý của Thế Tôn khi nói 16 pháp quán, cho nên trái với mục đích của Ngài giáo hóa chúng ta.
Thông qua những điều này, chúng ta biết ở đây là chia thành hai điều để giảng: Người không hiểu bản hoài của Đức Thế Tôn, thiện căn còn hơi kém cỏi, có thể nhờ Tạp hạnh mà tiến vào Tịnh Độ Yếu môn, sau đó hồi hướng cầu vãng sanh, như thế đối với họ cũng là có tiến bộ; người đang tu Tịnh Độ Yếu môn, sau khi hiểu được bản hoài của Đức Thế Tôn, thì nên buông bỏ những Tạp hạnh này, trực tiếp đi vào nhà, chuyên tu Chánh hạnh, như thế thì mới thỏa mãn bản hoài của Phật, tùy thuận lời Phật dạy.

Nam-mô A-di-đà Phật!
Category
Dharma