Chùa Đại Giác - Cù lao phố, Biên Hòa (có phụ đề)
vào giữa thế kỷ 17 có ba nhà sư thuộc phái Lâm Tế tông, từ miền Trung đến Đồng Nai hoằng hóa đạo Phật.
Nhà sư Thành Nhạc dựng lên chùa Long Thiền (1664); nhà sư Thành Trí lên núi dựng Chùa Bửu Phong (1679), nhà sư Thành Đẳng chèo ghe đến Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa, TP. Biên Hòa) khẩn hoang và dựng lên chùa Đại Giác (1665).
Năm 1779, thời Thiền sư Tổ Ấn-Mật Hoằng trụ trì, Nguyễn Thị Ngọc Anh, là công chúa thứ ba của chúa Nguyễn Phúc Ánh có đến trú tại chùa một thời gian.
Năm Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) nguyên niên (1802), nhớ ơn, nhà vua cho thợ đến xây cất, đem tượng binh đến chở đất và dậm nền chùa (nên sau này người dân còn gọi là chùa Tượng). Ngoài ra, nhà vua còn dâng cúng một pho tượng Phật A-di-đà bằng gỗ mít cao 2,25 m. Vì thế nên chùa còn có tên là chùa Phật Lớn (hiện pho tượng vẫn còn được thờ tại chùa).
Năm Nhâm Thìn (1952), do lũ lụt, chùa bị hư hại nghiêm trọng. Năm 1959, được sự đóng góp của nhân dân trong vùng, Trụ trì chùa là Hòa thượng Thiện Hỷ (1921 - 1979), đã cho xây cất lại toàn bộ ngôi thờ bằng tường gạch, cột bê tông cốt thép.
Di tích chùa Đại Giác còn gắn với một câu chuyện tình cảm giữa một Thiền sư và một Công chúa nhà Nguyễn.
Năm Gia Long thứ 13 (1814) Thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt không rõ năm sinh, là nhà sư đầu tiên ở miền Nam được phong Quốc sư. Với kiến thức Phật học uyên bác ông được vời về Huế để giảng kinh cho hoàng tộc. Tại kinh đô, Thái trưởng công chúa Long Thành, chị ruột chúa Nguyễn Phúc Ánh và là bác ruột của vua Minh Mạng, trong những ngày theo học đạo, đã thầm yêu nhà sư. Năm 1821, Hoà thượng Phật Ý-Linh Nhạc viên tịch, sư trở về chùa Từ Ân (Gia Định) chịu tang sư phụ rồi ở lại luôn. Những tưởng tránh được nghiệp duyên, nào ngờ vị Hoàng cô trên tìm đến tận nơi. Thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt quyết định nhập thất hai năm ở chùa Đại Giác để không gặp mặt. Nhưng vì Hoàng cô cứ nài nỉ xin được nắm tay ông trước khi trở về Huế, và bà đã toại nguyện. Đêm ấy, nhà sư tự thiêu sau khi ghi lại bài kệ trên vách để bày tỏ tấm lòng của mình.
“Thiệt đức rèn kinh vẹn kiếp trần.
Thành không vẩn đục vẫn trong ngần.
Liễu tri mộng huyễn chơn như huyễn.
Đạo mình mình vui đạo mấy lần”
Mấy ngày sau, Hoàng cô cũng uống độc dược quyên sinh tại chùa Đại Giác vào ngày mùng 2 tháng 11 năm Quý Mùi (1823)
chùa Đại Giác đã được xếp hạng là Di tích lịch sử và nghệ thuật cấp quốc gia theo quyết định số 993/QĐ, ký ngày 28 tháng 9 năm 1990.
Nhà sư Thành Nhạc dựng lên chùa Long Thiền (1664); nhà sư Thành Trí lên núi dựng Chùa Bửu Phong (1679), nhà sư Thành Đẳng chèo ghe đến Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa, TP. Biên Hòa) khẩn hoang và dựng lên chùa Đại Giác (1665).
Năm 1779, thời Thiền sư Tổ Ấn-Mật Hoằng trụ trì, Nguyễn Thị Ngọc Anh, là công chúa thứ ba của chúa Nguyễn Phúc Ánh có đến trú tại chùa một thời gian.
Năm Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) nguyên niên (1802), nhớ ơn, nhà vua cho thợ đến xây cất, đem tượng binh đến chở đất và dậm nền chùa (nên sau này người dân còn gọi là chùa Tượng). Ngoài ra, nhà vua còn dâng cúng một pho tượng Phật A-di-đà bằng gỗ mít cao 2,25 m. Vì thế nên chùa còn có tên là chùa Phật Lớn (hiện pho tượng vẫn còn được thờ tại chùa).
Năm Nhâm Thìn (1952), do lũ lụt, chùa bị hư hại nghiêm trọng. Năm 1959, được sự đóng góp của nhân dân trong vùng, Trụ trì chùa là Hòa thượng Thiện Hỷ (1921 - 1979), đã cho xây cất lại toàn bộ ngôi thờ bằng tường gạch, cột bê tông cốt thép.
Di tích chùa Đại Giác còn gắn với một câu chuyện tình cảm giữa một Thiền sư và một Công chúa nhà Nguyễn.
Năm Gia Long thứ 13 (1814) Thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt không rõ năm sinh, là nhà sư đầu tiên ở miền Nam được phong Quốc sư. Với kiến thức Phật học uyên bác ông được vời về Huế để giảng kinh cho hoàng tộc. Tại kinh đô, Thái trưởng công chúa Long Thành, chị ruột chúa Nguyễn Phúc Ánh và là bác ruột của vua Minh Mạng, trong những ngày theo học đạo, đã thầm yêu nhà sư. Năm 1821, Hoà thượng Phật Ý-Linh Nhạc viên tịch, sư trở về chùa Từ Ân (Gia Định) chịu tang sư phụ rồi ở lại luôn. Những tưởng tránh được nghiệp duyên, nào ngờ vị Hoàng cô trên tìm đến tận nơi. Thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt quyết định nhập thất hai năm ở chùa Đại Giác để không gặp mặt. Nhưng vì Hoàng cô cứ nài nỉ xin được nắm tay ông trước khi trở về Huế, và bà đã toại nguyện. Đêm ấy, nhà sư tự thiêu sau khi ghi lại bài kệ trên vách để bày tỏ tấm lòng của mình.
“Thiệt đức rèn kinh vẹn kiếp trần.
Thành không vẩn đục vẫn trong ngần.
Liễu tri mộng huyễn chơn như huyễn.
Đạo mình mình vui đạo mấy lần”
Mấy ngày sau, Hoàng cô cũng uống độc dược quyên sinh tại chùa Đại Giác vào ngày mùng 2 tháng 11 năm Quý Mùi (1823)
chùa Đại Giác đã được xếp hạng là Di tích lịch sử và nghệ thuật cấp quốc gia theo quyết định số 993/QĐ, ký ngày 28 tháng 9 năm 1990.
- Category
- 13 Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa